Chắc hẳn rằng, khi bạn nghe đến giảm phát, thì chắc chắn các bạn sẽ dễ dàng có thể liên tưởng được ngay đến lạm phát có đúng không? Tuy nhiên, “Giảm phát” hay “Lạm phát” là hai phạm trù định nghĩa hoàn toàn trái ngược nhau. Nếu như lạm phát là nguyên nhân của sự suy thoái kinh tế, thì giảm phát được ví như “gọng kìm” nhằm siết chặt làm cho nền kinh tế không thể nào phát triển được. Bài học điển hình là ngay tại Châu Âu và Nhật Bản, giảm phát thường sẽ là vấn đề nhức nhói gây ra suy giảm về kinh tế và năng lực cạnh tranh trên các thương trường quốc tế.
Vậy giảm phát là gì? Hãy cùng market-cap.net chúng tôi tìm hiểu ngay sau đây nhé!
Giảm phát là gì?
Giảm phát (Tên Tiếng Anh: Deflation) đã từng là một mối quan tâm rất phổ biến của các nhà kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Thế nhưng khái niệm này thì mới chỉ thực sự được quan tâm từ sau thế kỷ 20 mà thôi. Trước đó, thì các nhà kinh tế chỉ tập trung để nói về lạm phát mà thôi – cơn lốc này đã cuốn đi của cải của nền kinh tế sau những cuộc khủng hoảng lớn. Tuy nhiên vào sau cuộc đại khủng hoảng 1929 – 1933, khi giảm phát tiền tệ đã đồng thời với tỷ lệ thất nghiệp cao với các khoản vỡ nợ gia tăng, thì hầu hết các nhà kinh tế học đã mới quan niệm được rằng giảm phát được xem là một hiện tượng bất lợi.
Giảm phát (hay còn hiện được biết đến với 1 tên gọi là lạm phát âm) nó là mức độ giảm liên tục và đáng kể của giá trị hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế. Hay nói theo 1 cách khác, thì giảm phát là sự gia tăng giá trị thực của tiền so với các loại hàng hóa và dịch vụ. Điều này sẽ mang lại cho người tiêu dùng thêm nhiều sức mua hơn vì số tiền họ có bây giờ chỉ có thể mua được nhiều hơn những gì mà trước đây họ có thể.
Về giảm phát dài hạn thường rất có thể sẽ chuyển thành sự suy thoái và do đó, nó thường rất nguy hiểm đối với nền kinh tế: Nó cũng có thể dẫn đến cho bạn một cuộc khủng hoảng tài chính với việc gia tăng nghèo đói, mất việc làm, hay phá sản, vỡ nợ và dòng đầu tư ra khỏi được nền kinh tế.
Cách đo lường được giảm phát
Để bạn có thể tính toán được về giảm phát, thì nó sẽ tùy thuộc vào lựa chọn loại giỏ hàng hóa và nó thường được theo dõi dưới dạng chỉ số giá. Thông thường sẽ có chỉ số thông dụng được gọi là Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và Chỉ số giá bán buôn (WPI).
Chỉ số tiêu dụng (CPI): Để bạn có thể đo lường được giảm phát, chúng ta cũng nên sử dụng Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) – giúp đo lường được mức biến động giá trong cùng một rổ hàng hóa qua từng các năm. Theo đó, thì Chỉ số CPI sẽ đánh giá mức độ biến động của giá cả trong vòng một thời kỳ sẽ thấp hơn so với thời kỳ trước đó, tức là dấu hiệu của nền kinh tế đó đang trong giai đoạn giảm phát. Ngược lại, nếu như CPI qua các năm tăng, tức là nền kinh tế đang ở giai đoạn lạm phát.
Chỉ số giá bán buôn (WPI): Ngoài chỉ số CPI, WPI cũng được xem là một trong những thước đo lạm phát phổ biến thứ hai trên toàn thế giới. Mục tiêu nhằm có thể đo lường được và theo dõi được những tính biến động của giá hàng hóa buôn bán theo các giai đoạn trước và sau giảm phát. WPI cũng sẽ có xu hướng khác biệt giữa các quốc gia, nhưng nó chủ yếu thường sẽ bao gồm các mặt hàng đang được sản xuất hay bán buôn như là bông thô, hàng bông xám, quần áo bông,… Một số quốc gia cũng còn đang sử dụng một biến thể của WPI có mang tính chất tương tự và được gọi là chỉ số giá sản xuất (PPI).
Tham khảo thêm:
- Thị trường chứng khoán quốc tế là gì? Cách giao dịch nào sẽ hiệu quả
- Thuật ngữ GAP trong Forex nghĩa là gì?
- Forex là gì? Những điều cơ bản về Forex trader mới cần biết
Giảm phát có lợi hay có hại?
Giảm phát thường sẽ do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên về nguyên nhân chính của giảm phát lại chính là sự suy giảm của cầu. Theo như mô hình cung cầu cơ bản, thì thường nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm, thì lượng hàng hóa vẫn như cũ thậm chí là còn có khi bị thừa dẫn đến việc giá hàng hóa giảm. Việc này cũng sẽ dẫn đến nhiều hậu quả khôn lường hơn cho nền kinh tế.
Đối với ngành sản xuất, thì việc giá hàng hóa sụt giảm cũng sẽ làm cho doanh thu của các công ty sẽ ít đi và dẫn đến mất đi động lực sản xuất. Việc mà trả công cho nhân viên cũng y như vậy, với 1 lượng doanh thu giảm mà nó vẫn phải giữ nguyên về chi phí nhân công, dần dần thì các công ty cũng sẽ không còn đủ kinh phí nữa và điều tất nhiên sẽ xảy ra đó là thất nghiệp.
Với nền tài chính, thì đồng nội tệ tăng giá trị sẽ làm cho nhiều người sẽ muốn giữ tiền mặt hơn là phải đi tiêu xài. Chính vì điều này mà làm cho các dòng chảy tiền tệ hiện đang bị ứ đọng, cầu đã giảm sẽ còn giảm hơn. Cung nội tệ thiếu, các dòng vốn đang bị tắc nghẽn sẽ làm cho các doanh nghiệp trên thị trường sẽ trở nên thiếu vốn để có thể đầu tư.
Ngay cả khi đối với một doanh nghiệp để tìm đủ nguồn tiền để đi vay, giảm phát cũng sẽ kìm kẹp lại quyết định đi vay của doanh nghiệp đó do giá trị khoản vay sẽ ngày càng tăng. Điều này cũng sẽ được áp dụng đối với các món nợ ở hiện tại sẽ và sẽ càng ngày tăng trong tương lai của doanh nghiệp.
Việc giảm giá, nếu như tồn tại, nó cũng sẽ tạo ra được một vòng xoáy xấu dẫn đến việc giảm lợi nhuận, đóng cửa tại các nhà máy, thất nghiệp gia tăng, làm giảm thu nhập và làm tăng việc vỡ nợ từ các tài khoản vay của công ty và các cá nhân.
KẾT LUẬN
Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến các bạn đọc khái niệm về giảm phát là gì? Và giảm phát có lợi hay có hại. Mong rằng các thông tin này sẽ thật sự bổ ích đối với các bạn. Đừng quên like và chia sẻ với mọi người nếu như bạn thấy bài viết này hữu ích nhé!